Đối thoại Chiến lược quốc phòng Việt Nam - LB Nga lần thứ tư
Phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng
Đề cập tới chính sách phát triển theo hướng lưỡng dụng của công nghiệp quốc phòng Việt Nam, Đại tá Dương Văn Yên cho biết, chính sách này được triển khai đồng bộ theo hai chiều: Một là, đẩy mạnh các lĩnh vực có thế mạnh của công nghiệp quốc phòng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Hai là, huy động tối đa năng lực sản xuất, công nghệ của các thành phần kinh tế công nghiệp dân sinh cho các hoạt động công nghiệp quốc phòng.
Qua đó, kết hợp chặt chẽ các cơ sở công nghiệp quốc phòng với các cơ sở công nghiệp dân sinh phục vụ phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ phải tuân thủ yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, sẵn sàng huy động, động viên để sản xuất bảo đảm cho nhu cầu quốc phòng khi cần thiết.
Về chính sách phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện đại, Đại tá Dương Văn Yên lưu ý, Việt Nam chủ trương xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng đạt trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại, đủ năng lực sản xuất được các loại vũ khí trang bị hiện đại, vũ khí chiến lược, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại, nâng cao sức mạnh, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nâng cao tiềm lực quốc phòng.
Trong tham luận của mình, Đại tá Dương Văn Yên cũng đưa ra các định hướng, giải pháp phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam theo hướng lưỡng dụng, hiện đại.
Phần trình bày về nội dung "công nghiệp quốc phòng Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế, phát triển theo hướng lưỡng dụng, hiện đại" của Đại tá Dương Văn Yên đã thu hút sự quan tâm và nhận được sự đánh giá cao của các đại biểu trong nước và quốc tế tham dự hội thảo.
BNEWS Bộ Thương mại Mỹ ngày 29/6 đã công bố Chiến lược Xuất khẩu quốc gia năm 2023 (NES 2023), trong đó bao gồm các ưu tiên xúc tiến thương mại của Mỹ.
Việc thúc đẩy một khuôn khổ phối hợp toàn chính phủ sẽ giúp hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp và người lao động Mỹ khi cạnh tranh trên thị trường toàn cầu và trong các mạng lưới thương mại quốc tế. NES tập trung vào các nội dung: khí hậu và công nghệ sạch, sản xuất, du lịch, giáo dục quốc tế, phát triển cơ sở hạ tầng toàn cầu, nông-lâm-ngư nghiệp...
Chiến lược cũng đưa ra các chương trình và nguồn lực của Chính phủ Mỹ giúp hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo khẳng định các khoản đầu tư mang tính thế hệ của Chính phủ Mỹ vào các ngành công nghiệp, đổi mới sáng tạo, đào tạo lực lượng lao động và phát triển kinh tế địa phương đang tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế toàn diện và thúc đẩy khả năng cạnh tranh của Mỹ trên phạm vi toàn cầu.
Trước đó, ngày 28/6, Bộ trưởng Thương mại Raimondo đã chủ trì khai mạc cuộc họp Hội đồng Xuất khẩu của Tổng thống lần đầu tiên kể từ năm 2016, tập trung vào việc thúc đẩy thương mại tự do và kêu gọi các nhóm liên quan cung cấp nhiều hơn các khuyến nghị có giá trị cho chính quyền. Nội dung chính trong cuộc họp của Hội đồng Xuất khẩu của Tổng thống là nhằm xem xét và thông qua các khuyến nghị về tạo thuận lợi thương mại cùng một số vấn đề khác.
Bộ trưởng Raimondo cho rằng cơ chế hoạt động của Hội đồng Xuất khẩu của Tổng thống có thể tạo một tiền đề tốt cho các thỏa thuận thương mại trong tương lai. Bà khẳng định Hội đồng Xuất khẩu của Tổng thống đã giúp thúc đẩy việc hình thành nhiều ý tưởng về chính sách, đạo luật về thương mại.
Bộ trưởng Thương mại Gina Raimondo cũng xác nhận sẽ tổ chức và dẫn đầu một phái đoàn đến khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào năm 2024, kêu gọi mọi thành viên Hội đồng tham gia vào đoàn./.
(Kinhtedothi.vn) Bộ kế hoạch và Đầu tư vừa hoàn thành Dự thảo Chiến lược quốc gia về cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đến năm 2030. Theo đó, tất cả ngành nghề, lĩnh vực đều hướng tới kết nối số, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin với mục tiêu tổng quát “thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng, phát triển các công nghệ của CMCN 4.0 để đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế có tốc độ và chất lượng tăng trưởng cao, có năng lực cạnh tranh cao trên thế giới…”.
Theo Chiến lược, định hướng áp dụng và phát triển các công nghệ của CMCN 4.0 giai đoạn 2021 - 2030 bao gồm: Áp dụng các công nghệ của CMCN 4.0 trong xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số để quản lý Nhà nước thông minh hơn, nhanh hơn, minh bạch và hiệu lực, hiệu quả hơn; đem lại sự hài lòng cao cho người dân và doanh nghiệp. Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2025, hạ tầng internet cáp quang và internet di động băng rộng tốc độ cao (4G và 5G) phủ sóng toàn bộ các xã, tỷ lệ người dân sử dụng internet đạt 90%, đến năm 2030 đạt 100%. Đến năm 2025, 100% các cơ quan hành chính thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; 100% các đơn vị sự nghiệp công ứng dụng công nghệ thông tin trong giao tiếp với người dân và áp dụng thanh toán trực tuyến hoặc thanh toán bằng thiết bị di động...
Các ngành, lĩnh vực ưu tiên thực hiện nâng cấp, chuyển đổi công nghệ bao gồm: Hành chính công, điện - nước, y tế, giáo dục, chế tạo, nông nghiệp, vận tải và kho vận, thương mại, thông tin và truyền thông, tài chính - ngân hàng. Các công nghệ ưu tiên phát triển bao gồm: Kết nối di động 5G và sau 5G; trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, internet vạn vật, an ninh mạng...
Dự thảo Chiến lược cũng đưa ra các con số cụ thể về mục tiêu ứng dụng, chuyển đổi công nghệ của doanh nghiệp và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Chẳng hạn, có ít nhất 5 công ty công nghệ đạt giá trị từ 1 tỷ USD (unicorn) vào năm 2025. Con số này sẽ là 10 công ty vào năm 2030. Một mục tiêu khác là có ít nhất 5 công ty vào năm 2025 và 10 công ty vào năm 2030 có xuất khẩu sang các nước G7 hàng hóa, dịch vụ có dùng các công nghệ của CMCN 4.0…
Doanh nghiệp Việt đang rất hào hứng với các thông điệp của Chính phủ về 4.0, về nền kinh tế số. Áp dụng các công nghệ của CMCN 4.0 để nâng cấp, chuyển đổi hệ thống sản xuất và kinh doanh, tối ưu hóa phân bổ nguồn lực, phát triển sản xuất, kinh doanh nhanh hơn, cắt giảm chi phí, tìm kiếm thêm thị trường trong nước và quốc tế, nâng cao năng suất của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Theo Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, CMCN 4.0 là cơ hội để rút ngắn khoảng cách phát triển nếu chúng ta hành động đúng và đi đúng đường.
Dự thảo Chiến lược đã đặc biệt nhấn mạnh việc xây dựng thể chế cho các mô hình kinh doanh mới. Theo đó, nguyên tắc hàng đầu là việc xây dựng thể chế cho các ngành, nghề kinh doanh mới phải bảo đảm “thông thoáng, phù hợp với mức độ rủi ro” của từng ngành, nghề, hoạt động kinh doanh cụ thể.
Thực chất, thể chế pháp luật trong CMCN 4.0 đóng vai trò rất quan trọng. Trong thời gian gần đây, một số mô hình kinh doanh mới đã hình thành, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đã có bước phát triển khá mạnh. Đó là Got It với các ứng dụng giáo dục, Holistics với dịch vụ quản lý dữ liệu, ELSA với dịch vụ học tiếng Anh bằng công nghệ trí tuệ nhân tạo và MoMo với ứng dụng ví điện tử sử dụng công nghệ điện toán đám mây. Đó là sự xuất hiện của Grab, Uber, Airbnb, các dịch vụ cho vay ngang hàng…
Tuy nhiên, cách hành xử của cơ quan quản lý với các loại hình doanh nghiệp này, ví dụ xử Vinasun thắng kiện Grab hay yêu cầu xe công nghệ cũng phải gắn mào… được dư luận cho rằng chưa theo kịp sự phát triển của thị trường. “Công nghệ đang làm mờ dần ranh giới giữa các quốc gia, đòi hỏi phải có phản ứng chính sách kịp thời và giải pháp pháp lý phù hợp. Một trong những yêu cầu cấp bách của CMCN 4.0 là xây dựng và hoàn thiện thể chế, cùng với chính sách pháp luật” - Giám đốc World Bank Việt Nam Ousmane Dione chia sẻ.
Còn theo TS. Nguyễn Đình Cung - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản ký kinh tế Trung ương (CIEM): “Sẽ không thể có công nghiệp 4.0 với một bộ máy 1.0 - như vậy sẽ không tương thích được”. TS. Nguyễn Đình Cung cũng đồng tình với cơ quan soạn thảo đề ra trong Dự thảo: Trường hợp cơ quan Nhà nước chưa có quy định cụ thể, thì áp dụng nguyên tắc “Doanh nghiệp được tự do kinh doanh” trong các ngành, lĩnh vực không cấm; cơ quan Nhà nước không được yêu cầu doanh nghiệp xin phép kinh doanh khi chưa quy định điều kiện kinh doanh cho sản phẩm, dịch vụ cụ thể mà doanh nghiệp muốn đầu tư, kinh doanh.